H Hen Niê hái cà phê

Cà phê chiều – Lịch sử ĐẮK LẮK

LỊCH SỬ ĐẮK LẮK:

Đắk Lắk (còn ghi theo tiếng Pháp là Darlac) được thành lập theo nghị định ngày 22 tháng 11 năm 1904 của Toàn quyền Đông Dương.

Từ DAK có những từ tương đồng như Dar, đạ, đà. Các từ này tương ứng với các từ chỉ nơi chốn như Đà Nẵng, Đà Lạt, Đạ Tẻn, Đak Hà….v.v….Từ Dak=Dar = Đạ = Đà có nghĩa như một vùng lãnh thổ xuất hiện trong vùng đất của quốc gia Chăm Pa cổ xưa.

Từ LAK có từ tương đồng LAC. Theo các già làng ở vùng cao nguyên cũng cho rằng từ LAC là phiên âm của từ LẠCH. Theo dân gian thì người Lạch là các nhà buôn và trao đổi hàng hóa gốm xứ ở vùng cao nguyên (thương gia người dân tộc Lạch) trong thời Chăm Pa cổ. Các sử thi như sử thi Đăm Săn cũng nói về người Lạch.

Từ DAKLAK hay DARLAC hoặc ĐẠ LẠCH ý nói như vùng đất hay địa bàn mà người Lạch hay trao đổi hàng hóa tại đây.

Lễ hội đua voi
Lễ hội đua voi

Đến ngày 9 tháng 2 năm 1913 thì tỉnh này trở thành một đại lý hành chính trực thuộc tỉnh Kon Tum được thành lập cùng ngày.

Mãi đến ngày 2 tháng 7 năm 1923 tỉnh Đăk Lăk mới được thành lập lại. Lúc mới thành lập, Đắk Lắk chưa chia huyện, tổng mà chỉ có đơn vị làng (còn gọi là buôn hay bon), người Ê Đê có 151 làng, người Bih có 24 làng, người Gia Rai có 11 làng, người Krung có 28 làng, người M’dhur có 120 làng, người M’Nông có 117 làng, người Xiêm có 1 làng. Năm 1931, trong cuộc cải cách hành chính toàn Đông Dương, tỉnh Đắk Lắk được chia làm 5 quận, gồm có Ban Mê Thuột, Buôn Hồ, Đăk Song, Lắk và M’Đrăk, dưới có 440 làng.

Ngày 15 tháng 4 năm 1950,Quốc Trưởng Bảo Đại ban hành Dụ số 6 đặt Cao Nguyên Trung phần, trong đó có Đắk Lắk, làm Hoàng Triều Cương Thổ, có quy chế cai trị riêng.

Nghị định số 356-BNV/HC/NĐ của Chính Quyền Việt Nam Cộng Hòa ngày 2 tháng 7 năm 1958 ấn định tỉnh Đắk Lắk (được ghi là Darlac) có 5 quận, 21 tổng và 77 xã. Trong đó, Quận Ban Mê Thuột có 4 tổng, Quận Lạc Thiện (đổi tên từ quận Lăk) có 7 tổng, Quận M’Đrak có 4 tổng, Quận Đak Song có 2 tổng và Quận Buôn Hồ có 4 tổng.

Ngày 23 tháng 1 năm 1959, Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ban hành Nghị định số 24/NV, tách gần như toàn bộ quận Đak Song của tỉnh Darlac, lập ra tỉnh Quảng Đức. Như vậy tỉnh Darlac còn lại 4 quận. Sau đó quận M’Đrak lại bị xé lẻ, một phần nhập vào tỉnh Khánh Hòa.

Tháng 12 năm 1960 thành lập tỉnh Quảng Đức dựa trên sự phân chia ranh giới của địch, lấy mật danh là B4.

Ngày 20 tháng 12 năm 1963, lập thêm một quận mới tên là Phước An, quận lỵ đặt tại Phước Trạch, đến ngày 1 tháng 9 năm 1965 chuyển về Thuận Hiếu. Sau này lại bỏ cấp tổng, nên chỉ còn cấp quận (4 quận) và xã.

Tỉnh Đắk Lắk của nước Việt Nam thống nhất từ năm 1976 hình thành từ hai tỉnh Darlac và Quảng Đức, có diện tích lớn thứ hai Việt Nam sau tỉnh Gia Lai – Kon Tum, gồm thị xã Buôn Ma Thuột và 6 huyện: Đăk Mil, Đăk Nông, Krông Búk, Krông Nô, Krông Pắk, Lắk. Tỉnh chỉ lớn nhất nước khi tỉnh Gia Lai – Kon Tum tách làm đôi, khi đó Đắk Lắk diện tích 19.800 km². Số huyện tăng dần cho đến 18 huyện.

Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội ra Nghị quyết số 22/2003/QH.11[30], tỉnh Đăk Lăk tách thành hai tỉnh mới là Đăk Lăk và Đăk Nông, nên số huyện giảm xuống còn 12[31]:

Tỉnh Đắk Lắk gồm thành phố Buôn Ma Thuột và 12 huyện: Buôn Đôn, Cư M’gar, Ea H’leo, Ea Kar, Ea Súp, Krông Ana, Krông Bông, Krông Búk, Krông Năng, Krông Pắk, Lắk, M’Đrắk, các xã Ea R’Bin và Nam Ka của huyện Krông Nô; các xã Hòa Khánh, Hòa Xuân và Hòa Phú của huyện Cư Jut.
Tỉnh Đắk Nông gồm 5 huyện: huyện Đắk R’Lấp; huyện Đắk Nông; huyện Đắk Song; huyện Đắk Mil; huyện Krông Nô (trừ các xã Ea R’Bin và Nam Ka); huyện Cư Jut (trừ các xã Hòa Khánh, Hòa Xuân và Hòa Phú).

LỊCH SỬ BAN MÊ THUỘT:

Xưa kia, đây là vùng đất của người Ê Đê, với nhiều nhà dài Ê Đê nằm dọc theo suối Ea Tam, xuôi theo dòng đổ ra sông (Sêrêpôk). Các buôn được điều hành bởi già làng cho mỗi buôn. Những buôn làng đầu tiên trên địa bàn thành phố là: Buôn Kram, Buôn Alê, Buôn Păn Lăn, Buôn Kosier, Buôn Enao, Buôn Akõ Dhông, Buôn Dung.

Nhà dài truyền thống người Ê Đê
Nhà dài truyền thống người Ê Đê

Không có buôn nào có tên riêng là Buôn Ma Thuột trong cùng thời kỳ khi người Pháp xây dựng đô thị tại đây. Có nhiều luận chứng từ phía người Ê đê bản địa là ông ama Thuôt tên là Y- Druôt theo ghi chép của bà Linh Nga Niê Kdăm ghi lại từ già làng ở huyện C’mgar.

2

- Tư liệu Pháp được KTS. Nguyễn Thanh Hà tìm được, có ghi : Un très gros village se trouve préciément à 54 kilomètres de là occupé par les Rhadés Kpa sous les orders de Methuot, c’est à 700 mètres plus au Sud-Est de ce dernier, au bord de l’Ea-Tam rồi tiến đến nơi đây thành lập đô thị, chứng tỏ ông Mê Thuôt có tồn tại nhưng ở Buôn Mê Thuột hay ở ngoài vùng thì không có thông tin đầy đủ.

- Theo KTS. Phạm Ngọc Cảnh là người đọc và dịch nội dung cơ bản trên 3 tấm bản đồ về Buôn Ma Thuột đồng ý về sự tồn tại này khớp với các từ như sông Mé Kông, trại tù Mé Wall của Pháp ở C’mgar (trại Mê Van), và một cô gái Mé Sao là vợ của chánh sứ Sarbatier theo một bài báo, ông là người Pháp từng quản lí ở Buôn Ma Thuột trong thời kì Pháp Thuộc. Nhưng tên thật của ông Mé Thuột là gì thì chưa có tài liệu nào minh chứng cụ thể, và ông sống ở đâu.

Người nổi tiếng trong tờ bản đồ về Buôn Ma Thuột 1918 là Khunjunop tên thật là Y Thu K’Nul. Các thông tin về Mê Thuột vẫn còn trong bế tắc. Để làm rõ nghĩa nên tìm kiếm và giải nghĩa tương đồng của 4 từ Mé Kong – Mé Thuôt – Mé wall – Mé Sao (1 danh từ chỉ người 1 danh từ chỉ dòng sông lớn, 1 danh từ chỉ địa danh trại tù, Mé Thuôt) có liên quan nhiều đến vùng Hạ Lào, thuộc bản đồ Đàng Trong – Đàng Ngoài thời Trịnh Nguyễn.

Tập tục của người Rhade thì phụ nữ là người giữ của cải, nhà cửa, rồi đón chồng về ở nhà phụ nữ. Phân biệt Nam và nữ là Y và H trong thời buổi sau 75, nhiều khả năng Mé Thuột là một phụ nữ như người vợ Mé Sao của công sứ Sarbatier.

Những năm đầu Buôn Ma Thuột được xây dựng tại khu vực Buôn Kram, cạnh buôn Alê-A, Alê-B, ngày nay là thoải triền đồi khu vực ngõ cua đường Đinh Tiên Hoàng về nhánh suối Ea Tam. Thời kỳ Pháp đô hộ được đặt tên đô thị là Ban Mé Thuot, từ ” Ban” bao hàm một nghĩa rộng, ví như ”Ban” là đô thị các buôn, các buôn như khu khu vực nhỏ, ngang phường.

Bản đồ thời kỳ 1905-1918-1930, ”Ban” và ”Buôn” được phân biệt rõ rệt qua tư liệu bản đồ lịch sử của người Pháp, qua thời Việt Nam Cộng Hòa phiên âm thành Ban Mê Thuột, sau 1975 gọi thành Buôn Ma Thuột, nên nhiều người suy diễn là có vị tù trưởng ama Thuột, dẫn đến sự nhầm lẫn nghiêm trọng.

Ngoài ra còn các cách gọi sai khác như (Bản Mế Thuột – Bản Mế Thuật, Buôn Ma Thuộc – Buôn Ma Thuật, Ban Mê Thuộc – Ban Mê Thuật), đều là cách gọi sai lệch về thông tin của thành phố.

Trước năm 1905, do các thương lái thường xuyên nhũng nhiễu, và bóc lột cạn kiệt vật phẩm của người Thượng dẫn đến người Thượng thường tràn xuống vùng Khánh Hòa ngày nay cướp lương thực. Do vậy người Pháp quyết định thành lập trung tâm hành chính Ban – Mé – Thuôt và tỉnh DarLac ở vùng Tây Nguyên.

Công cuộc tiếp cận và khai phá vùng cao nguyên Darlac được tiếp cận theo sông Mê Kông đi vào sông Sê-Rê-Pok, tới Buôn Đôn, nhờ các vị vua săn voi ở Buôn Đôn,người Pháp tìm được nhánh suối Eanao – EaTam, nơi các buôn làng người Eđê sinh sống với mật độ lớn và gần nhau.Dẫn đến việc hình thành một trung tâm hành chính mới là Ban Mé Thuột, với lực lượng lao động là người Ê đê bản địa, trong công cuộc khai thác thuộc địa thời kỳ đầu của người Pháp ở Darlac.

Thác Dray Nur
Thác Dray Nur

Năm 1905 bản đồ quy hoạch đầu tiên về Ban Mé Thuôt được ấn bản. Tư liệu này ngày nay vẫn còn để đối chiếu. Buôn đầu tiên xuất hiện với đô thị là buôn Kram. Cùng thời kỳ này các đồn điền được lập dựa theo sự phân bố dân cư tự nhiên của các dân tộc nơi đây ở trên toàn tỉnh Darlac. Các thầy giáo người Huế, người Bình Định, các công nhân người Phú Yên, Khánh Hòa, Nha Trang được người Pháp điều động lên Tây Nguyên để hướng dẫn người Eđê các phương thức sản xuất cơ bản, như trồng lúa, trồng cây công – nông nghiệp, khai thác gỗ rừng…

Năm 1918 bản đồ thứ 2 được ấn bản. Xuất hiện ngôi làng An Nam (làng người Trung Kỳ) được bố trí bên cạnh buôn Kram tại Ban Mé Thuôt. Tư liệu hình ảnh ghi nhận đã có các ngôi trường dạy người Ê đê các phương thức sản xuất mới. Thời kỳ này chữ quốc ngữ phiên âm theo tiếng Ê đê được người Pháp phổ biến dần trên Darlac, sử thi Đam San được ghi chép lại bởi vị công sứ Sabatier.

Bản đồ 1918 ghi nhận thêm một buôn lớn về phía Tây – Nam thành phố ngày nay là buôn Alê A và Alê B.

Năm 1930 ấn bản tờ bản đồ ghi nhận khu phố An Nam, khu phố của người Trung Kỳ riêng biệt, ngày nay là khu trung tâm của thành phố, nơi tọa lạc đình Lạc Giao, chùa Sắc Tứ Khải Đoan. Và khu phố Tây của người Pháp ở phía Đông thành phố nay là khu vực đường Nguyễn Công Trứ – Đinh Tiên Hoàng – Hùng Vương và khu bảo tàng, khu vực người Êđê cũng được tách riêng biệt không kết hợp vào khu người Trung kỳ.

Một căn nhà dài Ê Đê truyền thống ở buôn Ko Tam đầu nguồn.
Một căn nhà dài Ê Đê truyền thống ở buôn Ko Tam đầu nguồn.

Thời kỳ Pháp thuộc, Vua Bảo Đại cùng gia đình cũng xuất hiện nhiều ở Ban Mé Thuôt, các công trình gắn với tên tuổi ông như dinh Bảo Đại, Biệt thự hồ Lăk gắn với tên người vợ ông Nam Phương Hoàng Hậu, chùa Sắc Tứ Khải Đoan gắn với Đan Hy Hoàng Hậu, Bảo Đại xuất hiện ở Đarlac nguyên do là do Nhật đảo chính Đông Dương, Pháp nhượng bộ toàn vùng đồng bằng cho Nhật trong chiến tranh thế giới thứ 2, chỉ giữ lại các vùng núi, lúc này vùng núi lớn nhất Việt Nam mà Pháp còn lại là vùng Tây Nguyên, lúc này được gọi là Hoàng Triều Cương Thổ.

Khi người Pháp chuyển giao Miền Nam Việt Nam cho Chính quyền Quốc gia Việt Nam, rồi sau này là Việt Nam Cộng Hòa, cơ cấu hành chính tỉnh Darlac được chia thành các quận, quận Lạc Thiện, quận Phước An, quận Buôn Hồ, quận Ban Mê Thuột, với thị xã là Lạc Giao.

Thời kỳ này các thị trấn thị tứ bước đầu được đô thị hóa ở Đarlac, các phương tiện cơ giới ở Darlac tăng vọt, không chỉ cơ giới ở phương tiện giao thông, mà các máy móc phục vụ nông nghiệp cũng xuất hiện, các sân bay được xây dựng, riêng Ban Mê Thuột có đến 2 sân bay trong thời kỳ này, một sân bay cho trực thăng gọi là phi trường Lạc Giao, một sân bay cho các máy bay lớn là phi trường Phụng Dực (phi trường này được xây từ các gói viện trợ của Mỹ cho Pháp trong trước năm 1950,nay là sân bay Buôn Ma Thuột) Cũng trong thời kỳ này, Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng xuất hiện nhiều ở Ban Mê Thuột, ông ăn tết ở Ban Mê Thuột năm 1957 và đồng thời tổ chức lễ hội kinh tế khi ông ăn tết ở đây.

Sau năm 1975, Thị xã đổi tên thành Buôn Ma Thuột có 7 phường: Tân Lập, Tân Thành, Tân Tiến, Thắng Lợi, Thành Công, Thống Nhất, Tự An và 21 xã: Cư ÊBur, Ea Bar, Ea Bông, Ea Kao, Ea Na, Ea Nuôl, Ea Po, Ea Tam, Ea Tiêu, Ea T’ling, Ea Tu, Hòa Đông, Hòa Khánh, Hòa Phú, Hòa Thắng, Hòa Thuận, Hòa Xuân, Nam Dong, Quảng Điền, Tâm Thắng, Trúc Sơn.

Hoa Hậu Việt Nam H Hen Niê
Hoa Hậu Việt Nam H Hen Niê – Người con của vùng Daklak xinh đẹp

St

Có thể bạn quan tâm: cung cấp máy rang cà phê, cà phê hạt

Posted by Leo